An toàn giao thông
  • Xây dựng cơ sở dữ liệu về ATGT ( 1 item )

    Cơ sở dữ liệu về tai nạn giao thông là hệ thống thông tin, tài liệu về tai nạn giao thông được xây dựng, thu thập, xử lý, lưu trữ, quản lý, khai thác, sử dụng bằng mạng điện tử hoặc các vật mang tin khác. Các dữ liệu, thông tin về tai nạn giao thông được thu thập, cập nhật đầy đủ, kịp thời, chính xác theo một hệ thống thống nhất, được lưu giữ tập trung tại Trung tâm dữ liệu của Phòng Cảnh sát giao thông Công an cấp tỉnh và Cục Cảnh sát giao thông đường bộ - đường sắt.

    Cơ sở dữ liệu TNGT đường bộ góp phần đánh giá đúng thực trạng TNGT. Trong những năm gần đây, mặc dù kết cấu hạ tầng giao thông ở nước ta được quan tâm đầu tư xây dựng mạnh mẽ, tuy nhiên, thực tế vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển xã hội và sự gia tăng nhanh chóng của phương tiện tham gia giao thông. Thực trạng này đã dẫn đến sự không tương thích giữa các yếu tố cơ bản cấu thành hoạt động giao thông vận tải quốc gia (người tham gia giao thông, phương tiện tham gia giao thông, kết cấu hạ tầng giao thông). Kéo theo nó là tình trạng ùn tắc giao thông, tai nạn giao thông, ô nhiễm môi trường…gây cản trở cho sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội. Chính vì vậy, việc xây dựng, quản lý và khai thác cơ sở dữ liệu TNGT đường bộ một cách khách quan, khoa học giúp cho nhà nước, các cơ quan chức năng đánh giá đúng thực trạng tình hình TNGT đường bộ của quốc gia, chẳng hạn như: tình hình phát triển phương tiện giao thông, tình hình người tham gia giao thông, những vấn đề cơ bản về kết cấu hạ tầng giao thông. Từ đó, có những định hướng, chính sách điều chỉnh hợp lý, góp phần đảm bảo TTATGT, hạn chế đến mức thấp nhất TNGT, nâng cao năng lực vận tải, góp phần phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế xã hội đất nước.

    Qua khai thác, phân tích cơ sở dữ liệu TNGT đường bộ góp phần làm rõ nguyên nhân, điều kiện của tình trạng mất TTATGT, TNGT đường bộ tập trung vào sự không tương thích của các yếu tố cấu thành hoạt động giao thông là người tham gia giao thông, phương tiện tham gia giao thông và kết cấu hạ tầng giao thông. Cụ thể là: phương tiện tham gia giao thông gia tăng nhanh chóng, kết cấu hạ tầng giao thông chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của phương tiện tham gia giao thông, ý thức tự giác một bộ phận không nhỏ của người tham gia giao thông và tinh thần trách nhiệm người thực thi công vụ còn yếu kém. Xây dựng, quản lý và khai thác cơ sở dữ liệu TNGT đường bộ còn góp phần làm rõ ảnh hưởng của điều kiện môi trường đến tình trạng mất TTATGT, TNGT đường bộ. Cụ thể là: các yếu tố thiên nhiên, môi trường giao thông vận tải là tổng hợp các vật, các hiện tượng xung quanh có ảnh hưởng đến người tham gia giao thông, nhất là người điều khiển phương tiện giao thông, bao gồm: cảnh quan xung quanh đường, điều kiện thời tiết, khí hậu, ánh sáng…ảnh hưởng lớn đến khả năng quan sát, phán đoán xử lý tình huống của người tham gia giao thông, nhất là người điều khiển phương tiện giao thông cũng là một trong những nguyên nhân làm gia tăng TNGT đường bộ.

    Cơ sở dữ liệu TNGT đường bộ góp phần phục vụ cho yêu cầu nghiệp vụ của ngành Công an trong từng giai đoạn. Cũng như Cơ sở dữ liệu về đăng ký, quản lý phương tiện giao thông, Cơ sở dữ liệu TNGT đường bộ giúp cho việc tra cứu các thông tin về phương tiện và người điều khiển; góp phần quan trọng vào việc quản lý xã hội của nhà nước trên lĩnh vực giao thông vận tải, đảm bảo Quốc phòng – An ninh, đáp ứng ngày càng tốt nhu cầu giao dịch, vận chuyển hành khách, hàng hóa, đi lại của nhân dân. Công tác xây dựng, quản lý và khai thác cơ sở dữ liệu TNGT đường bộ với hệ thống các thông tin về số vụ xảy ra, dạng tai nạn, cặp phương tiện tai nạn, tình trạng vận tải của phương tiện, tuyến đường, thời gian thường xảy ra tai nạn, điều kiện thời tiết…góp phần quan trọng trong việc làm rõ nguyên nhân, điều kiện của tình trạng TNGT đường bộ phục vụ cho công tác phòng ngừa, làm giảm tai nạn, đảm bảo TTATGT.

     

    Công tác thu thập CSDL TNGT đường bộ đã được các cấp, ngành quan tâm ở nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên để nâng cao tính hiệu quả trong việc thu thập, quản lý và khai thác cần phải có cơ chế phối hợp để thống nhất các dữ liệu cần thiết, phù hợp với tất cả các ngành có liên quan trên phạm vi toàn quốc. Một trong những vấn đề của thực trạng công tác phân tích CSDL TNGT đường bộ hiện nay là việc thu thập thông tin không đủ, phần lớn chỉ đáp ứng công tác thống kê báo cáo do đó khả năng tham mưu về lĩnh vực này còn hạn chế. Ngoài ngành Công an còn có các cơ quan chuyên môn của Bộ Giao thông vận tải, Bộ Y tế cũng đã và đang tiến hành xây dựng, thu thập, quản lý và khai thác hệ CSDL TNGT đường bộ. Hiện có nhiều cơ quan phát ngôn, công bố CSDL theo chuyên ngành của mình nhưng chủ yếu phục vụ công tác nghiên cứu mà chưa có cơ quan chịu trách nhiệm công bố chính thức.

    Quan hệ phối hợp của các chủ thể ngoài ngành Công an trong việc hoàn thiện hệ thống CSDL TNGT đường bộ được xác định trên cơ sở thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT-BCA-BGTVT ngày 03 tháng 03 năm 2010, trong đó quy định như sau: Cục CSGT đường bộ - đường sắt cung cấp cho Tổng cục đường bộ Việt Nam, Cục đăng kiểm, Sở Giao thông vận tải, Văn phòng thường trực UBATGTQG, đồng thời báo cáo lên Tổng cục Cảnh sát để đảm bảo an ninh xã hội về các số liệu đăng ký, đăng kiểm phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, dữ liệu về cấp, đổi, thu hồi, tước quyền sử dụng giấy phép lái xe, chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức pháp luật về giao thông đường bộ trên toàn quốc. Tuy nhiên trong quá trình phối hợp, chia sẻ DL TNGT đường bộ cần phải đảm bảo tính bí mật nghiệp vụ của ngành đối với một số khía cạnh như: các thông tin về vụ TNGT đang trong giai đoạn điều tra; các dữ liệu về người vi phạm.

     

    Để công tác khai thác, phân tích dữ liệu tai nạn giao thông được thực hiện một cách có hiệu quả, góp phần đề xuất những chủ trương, chính sánh, giải pháp nhằm giảm thiểu thiệt hại do tai nạn giao thông hiện nay, tác giả xin nêu ra một số vấn đề cần giải quyết như sau:

    Một là: Tiếp tục nâng cao nhận thức của cán bộ chiến sĩ CSGT về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của cơ sở dữ liệu TNGT trong đảm bảo TTATGT. Từ đó, mỗi cán bộ, chiến sĩ nêu cao tinh thần trách nhiệm trong thu thập, thống kê đầy đủ chi tiết vụ TNGT làm cơ sở cho việc xây dựng cơ sở dữ liệu TNGT một cách chính xác, khách quan và khoa học.

    Hai là: Ngày càng hoàn thiện phần mềm cơ sở dữ liệu TNGT trên toàn quốc theo hướng thân thiện với cán bộ, chiến sĩ nhập cơ sở dữ liệu, tránh những chi tiết lặp lại trong một bản ghi dữ liệu nhưng đồng thời vẫn đảm bảo được đầy đủ các thông tin về vụ TNGT. Kết nối các máy tính chủ của các đơn vị, địa phương và Cục CSGT ổn định và thông suốt đường truyền đảm bảo kịp thời cập nhật tình hình TNGT trên toàn quốc.

    Ba là: Nghiên cứu việc xây dựng chương trình và đưa vào giảng dạy môn học cơ sở dữ liệu TNGT cho chuyên ngành CSGT trong các trường Công an nhân dân để mỗi sinh viên được tiếp cận và nắm vững kiến thức về cơ sở dữ liệu TNGT nhằm phục vụ tốt công tác sau khi ra trường, có kế hoạch mở các lớp tập huấn về cơ sở dữ liệu TNGT cho các cán bộ CSGT đương chức. Bên cạnh đó, do việc xây dựng, khai thác và phân tích cơ sở dữ liệu TNGT rất khó khăn, phức tạp, đòi hỏi tinh thần trách nhiệm, tận tụy và tâm huyết với công việc mới đạt hiệu quả cao, nên cần có cơ chế hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ, chiến sĩ trực tiếp làm công tác này.

    Bốn là: Những tổ chức, cá nhân theo qui định của ngành Công an và pháp luật có quyền sử dụng thông tin thống kê, tổng hợp tai nạn giao thông phải bảo đảm bí mật số liệu thống kê theo quy định của Pháp lệnh bảo vệ bí mật nhà nước và các văn bản hướng dẫn thi hành. Nghiêm cấm hành vi sử dụng thông tin thống kê, tổng hợp tai nạn giao thông làm phương hại đến lợi ích quốc gia và lợi ích các cơ quan, tổ chức, cá nhân.

    Năm là: Việc xây dựng quản lý và khai thác cơ sở dữ liệu TNGT đường bộ phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa lực lượng CSGT và Cơ quan Cảnh sát điều tra. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an các cấp có trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin, kết quả điều tra về vụ tai nạn giao thông cho Cảnh sát giao thông cùng cấp để thống kê, tổng hợp, xây dựng cơ sở dữ liệu về tai nạn giao thông.

  • Các giải pháp nâng cao ATGT ( 1 item )

    Hiện nay, tai nạn giao thông từ lâu đã trở thành vấn đề nổi cộm, nhức nhối trong xã hội Việt Nam. Rất nhiều công trình, ý kiến cũng như giải pháp đã được đưa ra để giải quyết nhưng kết quả không được như mong muốn. Theo ý kiến của tôi, giải quyết tình trạng giao thông hiện nay, ngoài những giải pháp nhất thời, trước mắt chúng ta phải đi sâu tìm hiểu bản chất của vấn đề và đưa ra các giải pháp tổng thể cả ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.

    Theo ý kiến của tôi, tình trạng an toàn giao thông (ATGT) tại Việt Nam hiện nay là do những nguyên nhân cơ bản sau đây:

    1. Hệ thống Giao thông kém phát triển.

    2. Hiểu biết, ý thức của người tham gia giao thông yếu kém.

    3. Các chế tài quản lý còn chưa khoa học, hợp lý.

    4. Cơ cấu chủng loại phương tiện tham gia giao thông có độ an toàn thấp.

    5. Hệ thống giám sát giao thông tự động và bán tự động không có hoặc hoạt động không hiệu quả.

    Nhiều vấn đề kể trên mang tính lịch sử, rất khó giải quyết trong một thời điểm hay giải quyết một cách không đồng bộ cũng sẽ không mang lại hiệu quả cao. Muốn giải quyết phải có sự tham gia của nhiều cơ quan, ban ngành, lực lượng trong xã hội theo những quy trình, giải pháp khoa học, hiệu quả mang tính lâu dài.

    Theo tôi, vấn đề quan trọng nhất và ít tốn kém nhất chính là “các quy định, chế tài quản lý giao thông tại Việt Nam”. Với sự mong muốn không phải nghe, đọc, xem những thông tin về tai nạn giao thông, tôi xin được trình bày giải pháp tổng thể để hạn chế tai nạn giao thông. Giải pháp tổng thể này có mục đích:

    1. Xây dựng các chế tài quản lý, xử phạt, khen thưởng các đối tượng tham gia giao thông.

    2. Nâng cao nhận thức của người tham gia giao thông.

    3. Mở rộng, nâng cấp hệ thống giao thông với chi phí thấp, hiệu quả cao và quy hoạch đẹp.

    4. Đưa ra những gợi ý về thay đổi cơ cấu chủng loại phương tiện tham gia giao thông nhằm nâng cao sự an toàn cho người tham gia giao thông.

    5. Gợi ý về áp dụng khoa học công nghệ, cơ chế, phương thức quản hệ thống giám sát giao thông. Tôi xin phép được trình bày như sau: 1. Như đã nói ở trên, vấn đề quan trọng nhất và ít tốn kém nhất chính là “các quy định, chế tài quản lý giao thông tại Việt Nam”. Các quy định chế tài này có ảnh hưởng quyết định đến nhận thức cũng như hành vi của người tham gia giao thông. Nói là ít tốn kém nhưng nó chỉ đúng về mặt “tiền của”, chứ để giải quyết vấn đề này tốn rất nhiều thời gian và “chất xám” của những người xây dựng quy chế. Theo tôi nên xây dựng các quy chế quản lý một cách khoa học, khách quan mang tính giáo dục theo nguyên tắc có “thưởng”, có “phạt” không đặt người khác vào thế “đường cùng” dẫn đến việc “đối phó”, “làm liều” cũng như tạo cơ hội cho những tiêu cực xảy ra trong quá trình quản lý giao thông.

    Ví dụ 1: Theo tôi, cần bỏ ngay chế tài đột lỗ bằng lái xe hiện nay (giả sử như bạn đang là trụ cột một gia đình một vợ và hai con trong khi nghề lái xe là nghề duy nhất mà bạn biết; bằng lái xe của bạn đã bị bấm 02 lỗ; khi nhìn thấy cảnh sát giao thông bạn sẽ nghĩ gì và làm gì?), chúng ta nên thay thế nó bằng quy chế thưởng phạt bằng điểm như một số nước đang áp dụng (khi vi phạm giao thông bạn sẽ bị trừ điểm tùy theo mức độ vi phạm, nhưng trong vòng một thời gian nhất định, nếu không bị vi phạm bạn sẽ được cộng một số điểm nhất định…).

    Ví dụ 2: Muốn áp dụng hệ thống giám sát giao thông tự động ta cần phải lắp thêm một biển nữa vào xe gắn máy (Trung Quốc đã áp dụng điều này) và chuyển đổi chủ sở hữu xe; Muốn người dân tự nguyện chuyển tên chính chủ thì giảm thiểu chi phí và thủ tục sang nhượng cũng như có những chế tài nghiêm khắc cho những người không chuyển đổi chủ sở hữu. Đối với những phương tiện đã sang nhượng quá nhiều lần dẫn đến khó khăn trong việc tìm ra chính chủ của xe, nên tạo điều kiện để người sở hữu hiện tại đứng tên với điều kiện viết giấy cam kết và đưa các dữ kiện về xe đó vào máy tính để đối chiếu với những xe bị mất cắp…Có thể áp dụng thí điểm từng vùng miền một. 2. Về nhận thức, ý thức của người tham gia giao thông: Hiện nay nhận thức của người tham gia giao thông ở VN còn rất thấp, một bộ phận người tham gia giao thông tuy nhận thức được nhưng vẫn cố tình hay bị buộc phải tham gia giao thông “một cách hỗn loạn” (như lời của một chuyên gia nước ngoài nói về giao thông tại Hà Nội). Điều này gần như đã ăn sâu vào tiềm thức của người Việt Nam. Cần có những giải pháp tổng thể ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Xây dụng lại cách chuẩn mực quy tắc đạo đức, văn hóa trong xã hội; gắn liền các hành vi tham gia giao thông với chuẩn mực đạo đức, văn hóa trong xã hội.

    Ví dụ 3: Chúng ta cần dạy các quy tắc tham gia giao thông cho trẻ nhỏ và dùng chính trẻ nhỏ để dạy cho người lớn (bố, mẹ, ông, bà, cô chú…) cách thức tham gia giao thông. Thực ra việc dạy trẻ nhỏ về các quy tắc tham gia giao thông đã được thực hiện từ lâu tại một số các trường học, tuy nhiên chúng ta chỉ đơn thuần là dạy trẻ. Nếu chúng ta dạy trẻ ở một góc độ khác, nhìn nhận trẻ nhỏ là một “thanh tra giao thông” trong gia đinh trẻ, tôi tin rằng hiệu quả giáo dục sẽ được nhân lên gấp nhiều lần và thực tế hơn.

    Ví dụ 4: Một biện pháp nữa có thể áp dụng, đó là xây dựng các biện pháp giáo dục ý thức tham gia giao thông với tư tưởng miệt thị những người vi phạm an toàn giao thông (Ví dụ: phạt đứng trực cùng cảnh sát giao thông; phạt lao động công ích; chép lại toàn bộ hay một phần các quy định trong luật giao thông đường bộ; xây dựng các pano có hình ảnh về sự tiến hóa của loài người từ loài linh trưởng đến con người hiện đại – đang điều kiển phương tiện tham gia giao thông - cùng với câu hỏi “bạn đang ở giai đoạn nào của quá trình tiến hóa?”…).

    Tăng cường tuyên truyền, hướng dẫn tham gia giao thông cho các đối tượng ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa bằng các phương tiện, hình thức phù hợp. 3. Quy hoạch, mở rộng, nâng cấp hệ thống giao thông với chi phí thấp, hiệu quả cao. Lâu nay, việc mở rộng đường dường như rất khó khăn đối với chúng ta, một con đường dài chưa đầy 1km tại Hà Nội ngốn của xã hội trên dưới 40 triệu đô la với thời gian từ lúc quy hoạch cho tới khi hoàn thành lên tới trên dưới 10 năm trời trong khi 1km đường đua F1 quốc tế cũng chỉ tốn khoảng 1 triệu đô la. Bạn hãy tưởng tượng một thành phó như New york (Mỹ) làm thế nào để “biến” cả một dãy phố thành một con đường hay “xoay” một con đường từ “ngang” thành “dọc”, nếu bạn so sánh những bức ảnh chụp thành phố này sau khoảng 50 năm, bạn sẽ cảm giác như đó là một bức vẽ mà ở đó người ta xóa toàn bộ đi và vẽ lại toàn bộ. Có phải do nước Mỹ quá giàu để đền bù đất đai, thực ra không phải vậy mà chủ yếu là do “cách thức làm” của họ. Mở đường như chúng ta hiện nay chỉ gây tốn kém và tạo ra những bất công, khiếu kiện, những ngôi nhà mỏng và siêu mỏng… tại sao những người ở trong ngõ lại chẳng mất gì lại thành mặt phố (giá đất lên hàng chục, thậm chí hàng trăm lần), tại sao những ngôi nhà siêu mỏng vẫn xuất hiện ngay cả trên những trục đường ngoại giao, tại sao cảnh quan đô thị lại manh mún, lởm chởm như vậy?. Theo tôi, khi mở đường, ngoài phần diện tích để làm đường, chúng ta cần lấy thêm một cơ số đất nhất định hai bên đường, số đất này sẽ được quy hoạch và bán cho những đơn vị, tập thể, cá nhân có đủ năng lực xây dựng các công trình theo quy hoạch. Những nhà vốn dĩ trong ngõ sẽ được tạo một đường dân sinh song song với đường trục chính. Làm được việc này chúng ta vừa giảm chi phí đền bù, giảm tải giao thông cho trục đường chính, cảnh quan đô thị trở nên đẹp đẽ, giảm bớt sự bất công, vô lý trong xã hội…. 4. Cơ cấu và chủng loại phương tiện giao thông: Do nhiều yếu tố mang tính lịch sử cùng với sự kém phát triển về kinh tế, cơ sở hạ tầng nên các chủng loại phương tiện giao thông ở Việt Nam hiện nay chủ yếu là xe máy, một phương tiện hai bánh rất thiếu an toàn (tay lái hở, vận hành dựa trên sự lấy thăng bằng của người điều kiển, tiết diện tiếp xúc với mặt đường nhỏ…). Tất nhiên nếu thay thế được bằng ô tô, chắc chắn số lượng người chết và bị thương sẽ giảm đi nhiều lần, nhưng với điều kiện hiện nay của Việt Nam, điều này là không tưởng. Cần có các chế tài cụ thể khuyến khích nhập khẩu, sản xuất, tiêu dùng những mẫu xe an toàn hơn như có bộ phận che tay lái, xe gắn máy bốn bánh (một số nước châu Âu đã đưa mẫu xe này vào lưu thông)…

    Tất cả các phương tiện tham gia giao thông, sau một thời gian nhất định sẽ phải kiểm định thường xuyên, và đưa ra các quy định thời gian sử dụng của xe, các xe quá niên hạn sử dụng sẽ bị cấm lưu hành (những xe cũ, xe cổ sẽ không được lưu hành hoặc muốn lưu hành phải đạt các tiêu chuẩn cho phép và nộp lệ phí cao) 5. Hiện nay, với sự phát triển vượt bậc của KHCN, việc áp dụng các phương tiện kỹ thuật vào giám sát giao thông trở nên đơn giản và hiệu quả. Theo tôi, sau khi đã chuyển chủ sở hữu, thêm biển đằng trước vào xe gắn máy chúng ta nên áp dụng tối đa việc giám sát, ghi nhận các lỗi vi phạm giao thông của người tham gia giao thông, điều này vừa mang tính khách quan, hiệu quả, giảm bớt tiêu cực, góp phần nâng cao ý thức của người tham gia giao thông. Lực lượng cảnh sát giao thông sẽ chỉ xử lý trực tiếp các vụ tai nạn, các lỗi vi phạm gây nguy hiểm trực tiếp cho xã hội và tiến hành xử lý các vi phạm được ghi nhận từ trung tâm trước đó… Muốn thực hiện tốt, chúng ta cần có các chế tài phù hợp, ví dụ: sau khi lỗi vi phạm được ghi nhận, trung tâm xử lý sẽ gửi thư thông báo lỗi vi phạm tới chủ nhân phương tiện tham gia giao thông bằng thư bảo đảm, sau một thời hạn nhất định, chủ phương tiện không nộp phạt, sẽ có cảnh sát giao thông đến tận nhà thông báo lỗi vi phạm cùng với mức phạt tăng lên nhiều lần; nếu chủ phương tiện vẫn không chịu nộp phạt sẽ khởi kiện và đưa ra tòa vì đã vi phạm giao thông và không chấp hành hình phạt mức phạt có thể là phạt lao động công ích hay phạt tù ngắn ngày cùng với mức phạt tiền thật nặng.

    Khi viết những dòng này, tôi vừa đọc thông tin về vụ tai nạn giữa ô tô và tàu hỏa tại Khánh Hòa khiến hàng chục người chêt và bị thương. Tôi nhớ trong một chuyện ngụ ngôn đàn chuột đã tìm cách đeo chuông vào cổ mèo, tại sao chúng ta lại không?. Với trình độ KHCN hiện nay việc “đeo chuông” hoàn toàn không khó. Chúng ta cho lắp đặt một hệ thống phát tín hiệu tại tất cả các đoàn tàu với bán kính sóng từ 200 – 300 m; Tất cả các phương tiện tham gia giao thông buộc phải trang bị bộ phận bắt tín hiệu cảnh báo, những thiết bị này có thể được trang bị cho người dân và học sinh dưới dạng đồng hồ đeo tay… Theo tôi ước tính, nếu sản xuất với quy mô lớn, một thiết bị gắn vào ô tô, xe máy không quá từ 20.000 - 50.000/ chiếc, thiết bị cho khách bộ hành, trẻ em từ 5.000 – 10.000 đ/ chiếc. Trên đây là những ý kiến và giải pháp của tôi nhằm nâng cao an toàn giao thông tại Việt Nam, những ý kiến, thông tin trên, một số do tôi sưu tầm được, một số là ý tưởng cá nhân của tôi. Tất cả chỉ với mục mục đính để xã hội ta ngày càng tốt đẹp và an toàn. Kính mong được sự tham khảo, góp ý của mọi người, đặc biệt là các nhà quản lý có thẩm quyền.

Tìm kiếm

Dự báo thời tiết


khoahocbacha.Com
Đang Tải Dữ Liệu